Thi
pháp học là bộ môn khoa học cũ mà mới. Cũ là bởi vì nó đã xuất hiện ở Hy Lạp từ
thời cổ đại với Nghệ thuật thi ca của Aristote. Nhưng Thi pháp
học với tư cách là một bộ môn khoa học chỉ hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi
dịch chuyển sang Âu – Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Ở Việt Nam trước 1975, Thi
pháp học đã thâm nhập vào miền Nam nhưng chưa có điều kiện phổ biến ở miền Bắc.
Mãi đến sau Đổi mới, nó mới được chú ý và nhanh chóng trở thành “mốt” thời thượng
được nhiều người vận dụng. Thi pháp học được dạy ở bậc Cao học, Đại học và có
trong sách bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học. Tinh thần Thi pháp học
đang thấm dần trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn và trong bài làm văn học
sinh. Thi pháp học đang thu hút sự quan tâm của giới học đường.
Hiện nay, có
nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Nhưng trong nhà trường, nên có một cách hiểu
thống nhất vì tất cả học sinh phải học chung một sách giáo khoa, thi chung một
đề, một đáp án. Có thể hiểu, thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám
vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn bản như:
tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực,
tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức tác phẩm
như: hình tượng nhân vật – không gian – thời gian, kết cấu – cốt truyện – điểm
nhìn, ngôn ngữ, thể loại… Nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức,
đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần Đình Sử)(1). Phương pháp
chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiểu, “Phương pháp
hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học
nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó” (Nguyễn Văn Dân)(2). Dạy
Văn theo hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật
tác phẩm.
Một trong những phạm trù quan trọng hàng đầu của Thi pháp học là thể loại. Trong các công trình Thi pháp học của mình, Bakhtin rất quan tâm tới “phong cách học thể loại”(3). Trong giờ giảng văn, cần chú ý đến thể loại vì nó chi phối tất cả các yếu tố còn lại của hình thức tác phẩm. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng và yêu cầu phân tích theo một phương pháp riêng. Không phải ngẫu nhiên mà sách giáo khoa thường sắp xếp tác phẩm theo thể loại. Chẳng hạn, trong sách Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1, học sinh được học và đọc thêm liền mạch các tác phẩm truyện như: Hai đứa trẻ, Cha con nghĩa nặng, Chữ người tử tù, Vi hành, Số đỏ, Việc làng, Chí Phèo, Tinh thần thể dục, Đời thừa đi kèm với bài “Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn”. Mỗi khi dạy tới một thể loại, sách giáo khoa thường nêu chú thích về đặc trưng của thể loại đó. Có một số thể loại có thể nói lướt qua nhưng cũng có thể loại cần phải học kỹ lưỡng tại lớp. Chương trình Ngữ văn có các phần dạy luật thơ để học sinh vận dụng sáng tác văn học như: Tập làm thơ bốn chữ (lớp 6), Làm thơ lục bát (lớp 7), Làm thơ bảy chữ (lớp 8), Tập làm thơ tám chữ (lớp 9), Luật thơ Đường (lớp 10), Luật thơ (lớp 12)... Sách giáo khoa Lớp 10 (nâng cao) có một số câu hỏi về thể loại như: Anh (chị) hiểu thế nào là thể truyền kỳ qua tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên? Anh (chị) hiểu thế nào là văn biền ngẫu?... Dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, cần chỉ ra vẻ đẹp hình thức của thể văn biền ngẫu như: các vế phải đối nhau về số tiếng, thanh điệu, nhịp, nội dung, tất cả các câu đều gieo theo một vần, sử dụng nhiều điển cố và từ ngữ giàu hình ảnh…Có như vậy học sinh mới thấy được kỳ công của Nguyễn Đình Chiểu và ngưỡng mộ tài năng nghệ thuật của ông. Dạy thể loại còn phải chú ý tới “tính nội dung của thể loại”. Như thơ thất ngôn bát cú mang tính cổ kính, trang trọng, thơ lục bát đậm đà tính dân tộc, thơ tự do cho thấy tâm hồn phóng khoáng của tác giả… Nhiều nhà văn thích sử dụng một thể loại nhất định và chính điều này góp phần làm nên phong cách của nhà văn đó.
Nhân vật là
hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét nhân vật ở ba khía cạnh:
tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật miêu tả nhân
vật. Khi phân tích tính cách nhân vật, cần lưu ý đến kiểu nhân vật để có cách
phân tích cho phù hợp. Chẳng hạn, phân tích truyện ngắn hiện đại thì cần chú ý
đến kiểu nhân vật tính cách, còn phân tích truyện cổ tích thì nên chú ý loại
hình nhân vật chức năng. Phần quan niệm nghệ thuật về con người thường ít được
đặt thành mục riêng mà chỉ nói lướt qua ở phần tiểu dẫn, chủ đề hoặc kết luận.
Vì trong thực tế, không phải tác phẩm nào cũng thể hiện rõ nét nội dung này.
Nhưng đối với những tác phẩm thể hiện khá rõ quan niệm nghệ thuật về con người
thì cần phải đặt nó thành mục riêng, như: Số phận con người, A. Q chính
truyện, thơ Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, truyện ngắn Nam Cao, Một
người Hà Nội, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa… Nên lưu ý rằng, quan niệm về
con người ở đây toát ra từ văn bản nghệ thuật chứ không phải áp đặt từ bên
ngoài. Mặc dù biết rằng, quan niệm của tác giả về con người trong tác phẩm và ở
ngoài đời có thể không thống nhất nhau. Nhưng tôn trọng tính nghệ thuật khách
quan, chúng ta vẫn căn cứ vào văn bản là chính. Muốn biết được tính cách nhân vật
và quan niệm về con người, cần phải phân tích nghệ thuật thể hiện nhân vật. Đó
là căn cứ vào lai lịch, nghề nghiệp, hình dáng, hành động, nội tâm, ngôn ngữ
nhân vật, cách xưng hô và đánh giá của tác giả và các nhân vật khác về nhân vật
đó, mối quan hệ của nhân vật với mọi người và môi trường xung quanh, đồ vật mà
nhân vật thường sử dụng, sở thích của nhân vật… Căn cứ vào các yếu tố này mà
suy ra tính cách nhân vật và triết lý nhân sinh cũng như tài nghệ tác giả.
“Hình tượng
thế giới” không chỉ có nhân vật mà còn có không gian, thời gian. Thi pháp học
chỉ chú ý những chi tiết không gian, thời gian nào có ý nghĩa, góp phần thể hiện
cuộc sống con người, chúng vừa mang tính quan niệm lại vừa như một thủ pháp nghệ
thuật (lấy cảnh tả tình). Không gian và thời gian thường gắn liền với nhau, chi
phối, cộng hưởng lẫn nhau tạo ra một “thế giới mang tính quan niệm”. Cần chú ý
đặc điểm của chúng trong mỗi thể loại, mỗi giai đoạn văn học, mỗi tác giả, tác
phẩm. Nó có thể được phân tích ở tầm bao quát nhưng cũng có thể được phân tích ở
các chi tiết nhỏ. Như lối mở đầu quen thuộc trong văn học dân gian: “Ngày xửa
ngày xưa, ở một làng nọ…”, “Chiều chiều…”. Hình tượng con đường rộng mở trong
thơ Tố Hữu hay cổng nhà luôn khép kín của Hoàng (Đôi mắt). Không gian
nghệ thuật gồm có: không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý,
không gian kể chuyện. Thời gian nghệ thuật gồm có: thời gian được trần thuật
(hình tượng thời gian) và thời gian trần thuật (thời gian kể chuyện). Tìm hiểu
hình tượng thời gian, cần quan tâm ý nghĩa của các thời: quá khứ, hiện tại,
tương lai, độ đo thời gian của các nhân vật…Tìm hiểu thời gian trần thuật, cần
lưu ý các cấp độ thời gian như: trật tự kể với trật tự thời gian sự kiện, thời
lưu (độ dài các sự kiện được tính bằng câu), tần xuất (số lần lặp lại). Và các
thủ pháp thời gian như: trì hoãn, gián cách, đảo tuyến, chêm xen, hoán vị, đồng
hiện, bỏ lửng, che giấu, đón trước… Có nhiều tác phẩm thể hiện yếu tố không
gian, thời gian nghệ thuật khá rõ nét và nên đầu tư phân tích thích đáng.
Như: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thuốc, Ông già
và biển cả, Chiếc lá cuối cùng, Vội vàng, Đây mùa thu tới, Tràng giang, Hai đứa
trẻ, Đi đường, Chiều tối, Người lái đò sông Đà, Tiếng hát con tàu, Sang thu…
Sách giáo khoa cũng có nhiều câu hỏi yêu cầu học sinh phân tích hình tượng
không gian – thời gian như: “Phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những
biến chuyển của không gian lúc sang thu” (Bài Sang thu, lớp 9, tập
2), “Hãy tìm hiểu hai chiều của không gian và thời gian và mối quan hệ giữa
chúng trong bài thơ Tràng giang” (lớp 11, tập 2, nâng cao); “Không
gian nghệ thuật của truyện là tù hãm, ẩm mốc, bế tắc, nhưng thời gian nghệ thuật
thì có tiến triển. Từ mùa thu “trảm quyết” đến mùa xuân Thanh minh đã thể hiện
mạch suy tư lạc quan của tác giả. Tìm hiểu ý nghĩa của hình ảnh vòng hoa
(Bài Thuốc, lớp 12, tập 2)…
Trong văn học
có nhiều loại kết cấu: không gian – thời gian – điểm nhìn – nhân vật – chi tiết
– ngôn từ… nhưng quan trọng hơn cả là kết cấu cốt truyện. Lâu nay, trong giờ giảng
văn, thầy và trò thường có thao tác tìm hiểu bố cục tác phẩm để dễ phân tích. Bố
cục tác phẩm có khi đã nằm ngay trong kết cấu thể loại, như các phần đề - thực
- luận – kết trong thơ Đường. Kết cấu của thể loại hịch, cáo mang tính nghệ thuật
cao, bản thân của bố cục đã mang tính hùng biện. Đó là tính nội dung của hình
thức nghệ thuật. Những tác phẩm kể chuyện theo trật tự tuyến tính thì tìm bố cục
rất dễ. Nhưng nhiều truyện hiện đại thường theo lối trần thuật phi tuyến tính,
đa tuyến nên chia bố cục không dễ dàng. Chẳng hạn, truyện Chí Phèo không
thể chia đoạn theo thời gian trần thuật được mà phải chia theo hình tượng nhân
vật: Chí Phèo – Bá Kiến, rồi trong Chí Phèo lại chia theo thời gian sự kiện:
lúc còn lương thiện – lúc bị lưu manh hóa – lúc ý thức phục thiện. Ngoài ra, cần
phải cho thấy dụng ý của tác giả khi đảo lộn thứ tự sự kiện. Chú ý khai thác
các chi tiết đắt có vai trò quan trọng trong việc tạo tình huống truyện như chi
tiết bát cháo hành. Trong Vợ nhặt, chi tiết nhặt vợ là ngẫu nhiên
mà làm thành chủ đề tác phẩm. Bởi vậy, cần chú ý các chi tiết ngẫu nhiên và tất
nhiên, bình thường và bất thường, những biến cố, tình huống... Có những cốt
truyện độc đáo do nhà văn sáng tạo ra nhưng cũng có những cốt truyện mang tính
phổ biến, lặp lại một số mô típ nhất định, ta cũng cần chỉ ra ý nghĩa phổ quát
của nó. Phân tích cốt truyện ngụ ngôn, có thể chia ra nội dung hiển ngôn và nội
dung hàm ngôn. Nhiều nhà Thi pháp học phân chia cốt truyện cổ tích thành nhiều
bước, ứng với mỗi chức năng khác nhau. Truyện Cây khế có thể
chia ra 11 chức năng, bước cuối cùng có chức năng trừng phạt kẻ ác. Kết thúc có
hậu là đặc trưng của thể loại truyện cổ tích.
Ngôn ngữ là yếu
tố quan trọng của Thi pháp học. Không phải ngẫu nhiên mà những người khởi xướng
Thi pháp học là những nhà ngôn ngữ học. R. Jakobson chủ trương đi tìm “chất
văn” đích thực của ngôn ngữ thơ ca. Còn V. Shkolovski chú trọng thủ pháp “lạ
hóa”, nhòe nghĩa của nghệ thuật ngôn từ(4). Ngôn ngữ văn học có tính
tổ chức cao, giàu hình ảnh, đa nghĩa và mang dấu ấn riêng của tác giả. Khi phân
tích ngôn ngữ thơ, cần lưu ý nhạc điệu, các phương tiện và biện pháp tu từ,
cách dùng từ, giọng thơ, tứ thơ… Mỗi thể loại thơ có những quy định riêng về
bút pháp thể hiện. Thơ Đường luật quy định chặt chẽ về tiết tấu, bố cục, câu
hay, từ “đắt” thường nằm ở cuối bài. Ngôn ngữ thơ hiện đại mang tính tự do,
không bị gò bó vào khuôn khổ nào, lời nhân vật trữ tình cũng tự nhiên và mang dấu
ấn cá nhân rất rõ. Tác giả coi trọng cách diễn đạt mới mẻ nên thường có nhiều
cách kết hợp ngữ nghĩa lạ thường (Thơ duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng,
Tràng giang, Tống biệt hành, Tây Tiến, Tiếng hát con tàu…). Khi phân tích
ngôn ngữ văn xuôi cần chú ý cách sử dụng các kiểu câu, chủ thể phát ngôn, cách
xưng hô, giọng điệu kể, sự cá thể hóa ngôn ngữ của nhân vật và tác giả… Có thể
chia ngôn ngữ văn xuôi thành hai tính chất trái ngược nhau. Một là giọng điệu
tiểu thuyết, thể hiện đậm đặc trong văn xuôi hiện thực phê phán. Vũ Trọng Phụng
có giọng trào phúng, Nam Cao có giọng lạnh lùng, Nguyễn Công Hoan có giọng hóm
hỉnh… Ngược lại là giọng điệu sử thi thể hiện đậm đặc trong văn xuôi cách mạng.
Ta có thể thấy giọng văn tin yêu, trữ tình trong Vợ chồng A Phủ, Chiếc
lược ngà, giọng văn sôi nổi bừng bừng khí thế trong Rừng xà nu, Những
đứa con trong gia đình.. Hoặc giọng văn cổ kính trang trọng trong các tiểu
thuyết chương hồi trung đại. Mỗi thể loại, giai đoạn văn học, tác giả lớn có một
văn phong riêng, góp phần làm đa dạng ngôn ngữ văn học.
Điểm nhìn còn
được gọi là điểm quan sát, vị trí người kể chuyện, nhãn quan, cách nhìn đời… Điểm
nhìn nghệ thuật có quan hệ với mọi yếu tố trong tác phẩm nên ta có các loại điểm
nhìn sau: 1. Điểm nhìn tác giả: được thể hiện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba
vô nhân xưng và ở cách tác giả xưng hô nữa; 2. Điểm nhìn nhân vật: là cách mà
nhân vật nhìn nhận, đánh giá sự việc, có khi, nhân vật được trao điểm nhìn trần
thuật; 3. Điểm nhìn tâm lý: tức là nói đến điểm nhìn bên trong hay bên ngoài,
chủ quan hay khách quan; 4. Điểm nhìn tư tưởng: là thái độ, lập trường, cách
nhìn đời của tác giả hay nhân vật; 5. Điểm nhìn không gian: gồm có vị trí nhìn,
khoảng cách nhìn, trường nhìn, cách nhìn…; 6. Điểm nhìn thời gian: nhìn liền mạch
hay đứt quãng, nhìn kỹ hay nhìn lướt, cách sắp xếp các thời quá khứ - hiện tại
– tương lai…; 7. Điểm nhìn tu từ: là cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện của
tác giả về sự vật hiện tượng. Ví dụ: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”,
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc”… (Vội vàng). Ranh giới các
loại điểm nhìn trên chỉ mang tính tương đối và trong một tác phẩm có thể có nhiều
điểm nhìn khác nhau. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2, có câu hỏi: “Đoạn
trích Những đứa con trong gia đình được trần thuật chủ yếu từ
điểm nhìn của nhân vật nào ?”. Trong tác phẩm này có hai điểm nhìn của tác giả
và nhân vật, nhiều khi đan xen, khó tách biệt rạch ròi. Điểm nhìn có thể làm
thành kết cấu và chủ đề của tác phẩm như truyện ngắn Đôi mắt của
Nam Cao.
Thi pháp học
cũng nghiên cứu cả hình tượng tác giả. Người xưa nói: “Văn như kỳ nhân”, xem
văn là biết được người, đọc tác phẩm là biết ngay tác giả. Nhà văn có thể xuất
hiện trong tác phẩm qua cách xưng “tôi” hoặc có thể ẩn mình. Để biết phong cách
của nhà văn, có thể căn cứ vào ngôn ngữ trần thuật, cách xưng hô, giọng điệu, cảm
hứng đề tài, không gian – thời gian sự kiện, cách bố cục và cách sử dụng các
chi tiết trong tác phẩm… Nhà văn trong tác phẩm có thể không đồng nhất với nhà
văn ở ngoài đời. Để khách quan, ta cần bám vào văn bản là chính. Ta có thể
nghiên cứu phong cách của từng nhà văn lớn, có đặc điểm riêng rõ nét như: Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Hoặc có
thể phân tích phong cách chung của một nhóm nhà văn có cùng đặc điểm như: tác
giả truyện cổ tích, nhà thơ Việt Nam trung đại… Đối với những tác giả lớn
được học thành bài riêng thì dựng lên chân dung tương đối dễ dàng. Nhưng đối với
những nhà văn khác thì phần hình tượng tác giả thường được nhắc đến ở mục tiểu
dẫn, hoặc được lồng ghép vào phần phân tích. Sách giáo khoa Ngữ văn (nâng cao)
có nhiều mục nói về hình tượng tác giả như: “Cách biểu hiện chủ thể trữ tình
trong thơ trung đại” (lớp 10, tập 1); yêu cầu phân biệt cái “ngất ngưởng” của
Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng với cái “ngông” của Tản
Đà qua bài Hầu trời; “Phân tích bức chân dung tự họa của Hồ Chí
Minh trong Nhật ký trong tù” (lớp 11, tập 2), “Theo anh (chị), qua
đoạn trích này, Sô-lô-khốp nghĩ gì về số phận con người?” (lớp 12, tập 2)…
Trên đây là
các thành tố tạo nên cấu trúc tác phẩm văn học. Tuy nhiên, không phải lúc nào
ta cũng phân tích đầy đủ các yếu tố trên mà chỉ chú trọng những yếu tố nào quan
trọng, đặc sắc, thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ta có thể thiết kế một
bài giảng văn theo mô hình Thi pháp học. Như phân tích bài Qua Đèo
Ngangtheo kết cấu thể loại thơ thất ngôn bát cú (đề, thực, luận, kết). Bài
giảng văn Đôi mắt có thể được chia theo điểm nhìn nhân vật: 1.
Cách nhìn người nông dân, 2. Cách nhìn cuộc kháng chiến, 3. Cách nhìn về lãnh tụ…
Đối với bài Tràng giang, có thể chia theo điểm nhìn không gian: khổ
1 (gần), khổ 2 (xa), khổ 3 (gần), khổ 4 (xa). Truyện ngắn Hai đứa trẻ có
thể được chia theo các bước đi của hình tượng thời gian – không gian: 1. Cảnh
chợ huyện lúc chiều tối, 2. Cảnh phố huyện ban đêm, 3. Cảnh đoàn tàu lúc đêm
khuya. Chúng ta có thể kết hợp nhiều yếu tố thi pháp trong một bài làm văn.
Trong bài phân tích truyện Thuốc, nên chia ra các phần sau: 1.
Hình ảnh Hạ Du qua điểm nhìn của các nhân vật khác, 2. Không gian nghệ thuật,
3. Thời gian nghệ thuật, 4. Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du, 5. Ý nghĩa nhan đề
tác phẩm.
Giờ dạy Văn kết
hợp nhiều phương pháp khác nhau nhưng quan trọng nhất là hai phương pháp hình
thức và xã hội học. Tùy vào đặc điểm của bài học mà chú trọng phương pháp nào.
Phân tích văn học dân gian hoặc thể loại ký thì phương pháp xã hội học được sử
dụng nhiều hơn. Phân tích Thơ Mới thì phương pháp hình thức là chủ đạo. Phương
pháp xã hội học thường được sử dụng ở phần tiểu dẫn của bài giảng văn hoặc phần
mở bài, kết luận trong bài làm văn. Còn trong phần phân tích, phương pháp này
cũng thỉnh thoảng xuất hiện để giải thích rõ thêm các chi tiết. Trong bài phân
tích Tây Tiến, mở bài phải nói lên hoàn cảnh sáng tác. Phần thân
bài cần vận dụng các kiến thức lịch sử, địa lý… để làm sáng tỏ cái sâu sắc của
hình tượng (như giải thích hiện tượng “không mọc tóc”, “xanh màu lá”). Mục đích
của việc dạy bài Vội vàng là giáo dục nhân sinh quan tiến bộ
cho học sinh, nếu thiếu đi phần liên hệ thực tế thì chưa đạt yêu cầu. Bởi vậy,
trong việc dạy học Văn, cần kết hợp cả phương pháp hình thức và xã hội học thì
mới đạt tới mục tiêu Chân – Thiện – Mỹ.
Việc dạy học
Văn theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng chung của thế giới. Ở Việt Nam hiện
nay đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện điều này. Chúng ta đã có một đội ngũ
các nhà Thi pháp học tương đối hùng hậu. Việc phổ biến quan điểm Thi pháp học
trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm. Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành
chứa đựng rất nhiều tri thức về Thi pháp học. Các đề thi và đáp án môn Văn gần
đây đã yêu cầu học sinh chú trọng phân tích hình thức nghệ thuật. Nhưng những vấn
đề nói trên chỉ nằm ở dạng lý thuyết. Thi pháp học có biến thành thực tiễn sinh
động hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào sự vận dụng tích cực của thầy và trò
trong giờ giảng văn.
TS.
Phạm Ngọc Hiể̀n - Trường Đại học Văn Hiến TP.Hồ Chí Minh.